Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Sunday 13-07-2025 3:50am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

Kỹ sư Nguyễn Thị Nguyệt
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng

Chăm sóc sức khoẻ sinh sản, đặc biệt là quá trình thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), đặt ra nhiều thách thức đối với các cặp vợ chồng vô sinh. Những khó khăn này không chỉ giới hạn ở khía cạnh tài chính và điều trị, mà còn bao gồm các yếu tố tâm lý, nhân khẩu học và hoàn cảnh cá nhân, khiến không ít bệnh nhân từ bỏ điều trị sau một hoặc vài chu kỳ hỗ trợ sinh sản (ART). Gánh nặng thể chất và tinh thần do điều trị vô sinh gây ra có thể dẫn đến rối loạn tâm trạng, lo âu, trầm cảm, và căng thẳng tâm lý – điều này làm nổi bật nhu cầu cấp thiết về hỗ trợ tâm lý toàn diện trong suốt quá trình điều trị. Nhận thức được tầm quan trọng của chăm sóc tâm lý – xã hội, ESHRE đã công bố hướng dẫn năm 2015 nhằm hỗ trợ nhân viên y tế thực hiện hỗ trợ tâm lý thường quy cho bệnh nhân vô sinh. Tuy nhiên, sự thiếu kiên trì trong điều trị là nguyên nhân khiến nhiều cặp đôi không đạt được mục tiêu sinh sản dù có thể thành công nếu tiếp tục điều trị. Nghiên cứu này nhằm phân tích tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến việc không quay lại sau buổi tư vấn đầu tiên, từ đó đề xuất chiến lược cải thiện quyết định lâm sàng và hỗ trợ bệnh nhân hiệu quả hơn.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản thuộc Bệnh viện Nghiên cứu Humanitas (Ý), bao gồm hai phân tích: (1) hồi cứu định lượng và (2) tiến cứu định tính. Phân tích hồi cứu xem xét toàn bộ dữ liệu từ các cặp vợ chồng vô sinh đến khám lần đầu trong giai đoạn từ tháng 01/2012 đến tháng 12/2021. Phân tích tiến cứu được thực hiện trên nhóm bệnh nhân đến khám lần đầu trong năm 2021 và không quay lại sau tối thiểu 18 tháng; những người này được phỏng vấn qua điện thoại bằng bảng câu hỏi gồm 9 mục (có/không).
Dữ liệu thu thập bao gồm: tuổi người nữ tại lần khám đầu tiên, dự trữ buồng trứng (AMH, FSH), phân loại vô sinh (nguyên phát/thứ phát), tiền sử điều trị ART, và nơi cư trú. Dữ liệu được trích xuất từ hệ thống hồ sơ nội bộ sau khi bệnh nhân ký cam kết sử dụng dữ liệu ẩn danh cho mục đích nghiên cứu.
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm Stata 17.0, sử dụng Mann–Whitney U cho biến liên tục và kiểm định chi bình phương với hiệu chỉnh Fisher cho biến phân loại. Ngưỡng ý nghĩa thống kê được xác định tại p < 0,05. Nghiên cứu đã được phê duyệt bởi hội đồng đạo đức nội bộ (mã số 26/24, ngày 21/05/2024) và đăng ký tại ClinicalTrials.gov (NCT06344585).
Kết quả
Phân tích hồi cứu và phân tích tiến cứu cho thấy nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định không quay lại điều trị tại trung tâm hỗ trợ sinh sản.

  • Trong tổng số 24.772 cặp vợ chồng được theo dõi từ năm 2012 đến 2021, có 6174 cặp (24,92%) không quay lại, trong khi 18.598 cặp (75,08%) tiếp tục điều trị.

  • Tuổi trung bình của phụ nữ không quay lại là 37,6 ± 5,0 tuổi, cao hơn đáng kể so với nhóm quay lại (36,4 ± 4,5 tuổi, P < 0,001).

  • Nồng độ AMH của nhóm không quay lại là 1,8 ± 2,6 ng/ml, thấp hơn đáng kể so với nhóm quay lại (2,6 ± 2,8 ng/ml, P < 0,001).

  • Tỷ lệ vô sinh nguyên phát ở nhóm không quay lại là 50,39%, thấp hơn nhóm quay lại (56,74%, P < 0,001).

  • 13,67% phụ nữ không quay lại đã từng trải qua chu kỳ hỗ trợ sinh sản trước đó, cao hơn so với 12,08% ở nhóm quay lại (P = 0,001).

  • Tỷ lệ sống trong cùng vùng với trung tâm ở nhóm không quay lại là 64,50%, so với 71,35% ở nhóm quay lại (P < 0,001).

Trong phân tích tiến cứu năm 2021:

  • Trong số 3214 cặp, có 986 (30,68%) không quay lại và 839 phụ nữ (85,1%) đã phản hồi khảo sát qua điện thoại.

  • Tuổi trung bình nhóm không quay lại là 37,1 ± 5,1 tuổi so với 35,6 ± 4,2 tuổi ở nhóm quay lại (P < 0,001).

  • AMH trung bình ở nhóm không quay lại là 1,87 ± 2,59 ng/ml và FSH 13,13 ± 15,90 mIU/ml, so với nhóm quay lại: AMH 2,83 ± 2,87 ng/ml, FSH 8,19 ± 3,55 mIU/ml (P < 0,001).

  • Trong số 839 người phản hồi, 245 phụ nữ (29,20%) đã mang thai, 157 (18,71%) chọn điều trị tại nơi khác, 286 (34,09%) đủ điều kiện điều trị bằng noãn/tinh trùng hiến, tuy nhiên hình thức này không được bảo hiểm y tế chi trả tại trung tâm.

Những lý do khác khiến không quay lại bao gồm: căng thẳng tâm lý (9,65%), không hài lòng với bác sĩ (7,39%), và đã có con trước đó (3,34%).
Kết luận
Nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu này đã làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc bệnh nhân không quay lại sau buổi tư vấn sinh sản đầu tiên tại trung tâm hỗ trợ sinh sản. Trong tổng số 24.772 cặp vợ chồng đến khám trong giai đoạn 2012–2021, có 6.174 trường hợp (24,92%) không tiếp tục điều trị; riêng năm 2021, tỷ lệ không quay lại sau tư vấn đầu là 30,68%. Phân tích tiến cứu chỉ ra rằng tuổi cao (trung bình 37,1 ± 5,1 so với 35,6 ± 4,2; P < 0,001) và dự trữ buồng trứng kém (AMH trung bình 1,87 ± 2,59 ng/ml và FSH 13,13 ± 15,90 mIU/ml) là các yếu tố sinh học chính liên quan đến việc không quay lại điều trị.
Tuy nhiên, lý do không quay lại không chỉ dừng lại ở tiên lượng xấu. Khoảng 34,09% bệnh nhân cho biết nguyên nhân là do chỉ định thực hiện bằng phương pháp sử dụng noãn hoặc tinh trùng hiến, vốn không nằm trong phạm vi chi trả của hệ thống y tế công. Ngoài ra, 29,20% đạt được thai tự nhiên sau buổi tư vấn đầu, trong khi 18,71% chọn điều trị tại các cơ sở khác. Đáng chú ý, yếu tố tâm lý chiếm 9,65%, và 7,39% không quay lại do cảm thấy không thoải mái với bác sĩ đã tiếp xúc.
Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh sự cần thiết của việc tăng cường hỗ trợ tâm lý, cải thiện giao tiếp bác sĩ–bệnh nhân và nâng cao kỹ năng ứng xử của đội ngũ y tế. Việc nhận diện sớm các rào cản tiềm ẩn sẽ giúp giảm tỷ lệ không quay lại và nâng cao hiệu quả cũng như mức độ hài lòng trong điều trị hỗ trợ sinh sản.

Nguồn tham khảo
Camilla Scognamiglio, Federico Cirillo, Camilla Ronchetti, Matteo Secchi, Andrea Busnelli, Emanuela Morenghi, Carlo Alviggi, Paolo Emanuele Levi-Setti, From hope to hesitation: why couples fail to return for infertility treatment after the first consultation, Human Reproduction, Volume 40, Issue 5, May 2025, Pages 919–925, https://doi.org/10.1093/humrep/deaf012


Các tin khác cùng chuyên mục:
HỘI VIÊN
CỘNG TÁC VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Chủ nhật ngày 21 . 9 . 2025, Caravelle Hotel Saigon, Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Tiền Hội nghị: Trung tâm Hội nghị Grand Saigon, thứ bảy ngày ...

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK